Menu Đóng

Các phương pháp can thiệp rối loạn ngôn ngữ cho trẻ em

Các giai đoạn phát triển ngôn ngữ

• Tiền chủ ý (1-8 tháng tuổi ở trẻ bình thường) (Pre-intentional): Chưa có chủ ý, trẻ sơ sinh chưa phát triển các kỹ năng nhận thức trong sinh hoạt

• Tiền ngôn ngữ (Pre-linguistic): giao tiếp có chủ ý nhưng chưa giao tiếp bằng lời (9 – 18 tháng tuổi ở trẻ bình thường)

• Bắt đầu hình thành ngôn ngữ (Emerging language): những từ đầu tiên đến các tổ hợp hai ba từ (18­ – 36 tháng)

• Phát triển ngôn ngữ (Developing language): ngôn ngữ bậc mẫu giáo: tổ hợp từ đến hình thành các mẫu câu (36 tháng đến 5 tuổi)

• Ngôn ngữ cho việc học (Language for learning): độ tuổi đi học, bắt đầu phát triển khái niệm đọc viết (literacy skills)

• Ngôn ngữ nâng cao (Advanced language): bậc trung học và cao hơn

Các đặc điểm của trẻ ở giai đoạn tiền ngôn ngữ (9-18 tháng)

• Sử dụng các đồ vật quen thuộc: biết muỗng dùng để ăn, búa dùng để đóng đinh ,v.v..

• Bắt đầu phát triển giao tiếp có chủ ý (nhưng chưa bằng lời nói)

• Giao tiếp giới hạn thông qua cử chỉ và/hoặc phát ra âm thanh (không phải từ ngữ)

• Hiểu giới hạn các từ quen thuộc (mama, baba, ăn, v.v…)

• Giới hạn phạm vi của các chức năng ngữ dụng

• Nói từ đơn hoặc tổ hợp 2-3 từ (ăn cơm, uống nước, xe chạy, v.v. ). Nếu trẻ nói được cụm từ dài hơn hoặc thành câu -> trẻ ở giai đoạn bắt đầu phát triển ngôn ngữ

Các đặc điểm của trẻ ở giai đoạn bắt đầu hình thành ngôn ngữ (18-24 tháng)

• Gia tăng tần suất sử dụng & phạm vi các chức năng ngữ dụng (pragmatic functions)

• Sử dụng từ đơn và các tổ hợp từ để giao tiếp

• Gia tăng các âm lời nói

• Hiểu các danh từ, động từ và tổ hợp từ: tên các đồ vật, các từ chỉ hành động, v.v..

• Trẻ sử dụng các “chiến lược ngôn ngữ” để hiểu các câu dài, phức tạp

• Phát triển chơi biểu tượng (symbolic play)

• Các đặc điểm của trẻ ở giai đoạn phát triển ngôn ngữ (2 – 5 tuổi)

• Có sử dụng các cấu trúc câu đơn giản, nhưng chưa hoàn chỉnh

• Số từ vựng nói được hơn 50 từ ở trẻ 2 tuổi, có sự kết hợp các tổ hợp từ

Các phương pháp can thiệp rối loạn ngôn ngữ cho trẻ em

Dựa theo mức độ tự nhiên của phương pháp, các phương pháp can thiệp rối loạn ngôn ngữ cho trẻ em được chia ra làm 3 loại chính:

  1. Lấy trẻ làm trung tâm.
  2. Phương pháp động/kết hợp.
  3. Trị liệu viên chỉ đạo.

Trong đó, phương pháp chỉ đạo, trị liệu viên sẽ kiểm soát gần như mọi việc trong trị liệu, từ lựa chọn vật dụng, đồ chơi, sử dụng các vật dụng, các loại hình và tần suất củng cố khen ngợi cũng như sửa sai, những câu trả lời nào của trẻ sẽ được chấp nhận, v.v..

Phương pháp này thường được dùng khi mục tiêu can thiệp cần có sự lặp lại nhiều lần từ trẻ, như trong can thiệp âm lời nói: (speech intervention) vd: tập cho trẻ nói âm k, r, l, v.v… Tuy nhiên đây là phương pháp không tự nhiên nhất vì trị liệu viên đóng vai trò là người chỉ đạo trị liệu và trị liệu thường diễn ra trong môi trường có tính kiểm soát cao.

Phương pháp ấy trẻ làm trung tâm:

phương pháp trị liệu viên sẽ đi theo sự dẫn dắt của trẻ. Trị liệu viên sẽ từ đó mà phản hồi với hành vi giao tiếp của trẻ trong các ngữ cảnh giao tiếp tự nhiên. Không giống với phương pháp CD, trong phương pháp này, trẻ không cần phải đáp ứng lại với giao tiếp của trị liệu viên (nếu trẻ có đáp ứng thì tốt, không thì không ép trẻ phải nói theo, làm theo mẫu).

Phương pháp này hướng đến việc thúc đẩy ngôn ngữ cho trẻ một cách gián tiếp. Ưu điểm của phương pháp này là giao tiếp với trẻ được thực hiện trong một môi trường rất tự nhiên. Trị liệu viên hầu như không can thiệp vào vật dụng, đồ chơi trong trị liệu hay định hình sự củng cố, phản hồi của mình cho ngôn ngữ với trẻ. Chính vì vậy mà một trong những khuyết điểm của phương pháp này là trị liệu viên có thể sẽ không thực hiện được các mục tiêu của mình trong buổi trị liệu, do thường phải nương theo sự dẫn dắt của trẻ.

Phương pháp CC có thể được áp dụng trong các buổi trị liệu để lượng giá, làm quen với trẻ hoặc hướng đến mục tiêu ngôn ngữ trong ngữ cảnh tự nhiên nhất có thể cho trẻ.

Các kỹ thuật phổ biến của phương pháp CC: (nên nhớ trong phương pháp CC, trẻ không cần phải đáp ứng lại với trị liệu viên)

Nói một mình (self-talk)

Trong self-talk, trị liệu viên miêu tả hành động của bản thân trong khi tham gia chơi song song với trẻ. Nếu trẻ đang chơi xây nhà từ khối gỗ, trị liệu viên cũng bắt chước xây nhà với các khối gỗ và vừa làm vừa nói: “Cô đang xây nhà. Cô đang xây nhà đây. Nhà với các khối gỗ. Các khối gỗ của cô nè. Con thấy không? Nhà cô cao. Nhà có cửa sổ.”

Self-talk giúp trị liệu viên kết nối giữa lời nói và hành động. Bằng cách làm theo các hành động của trẻ và nói về các hành động đó của bản thân, trị liệu viên làm mẫu cho việc đưa ra nhận xét cho hành động là như thế nào.

Nói song song (parallel talk)

Trị liệu viên miêu tả hành động của trẻ, giống như ta đang tường thuật cho trẻ nghe. Lấy cùng 1 ví dụ là chơi xây nhà từ khối gỗ, trị liệu viên sẽ nhìn trẻ làm và nói: “Con đang xây nhà. Con đang lấy khối gỗ nè. Để khối gỗ lên đây. Nhà cao rồi. Con xây một cái nhà cao. Cao ơi là cao!”

Self-talk và parallel talk rất có ích đối với trẻ chưa nói được. Trị liệu viên sử dụng phương pháp này sẽ tạo ra cơ hội làm mẫu gián tiếp một cách tôi đa cho trẻ, và cũng để trẻ có cơ hội sử dụng các từ, cụm từ hay câu trong hội thoại. Khi trẻ bắt đầu có đáp ứng, trị liệu viên có thể kết hợp với các kỹ thuật khác trong cùng phương pháp CC, hay theo phương pháp động (Hybrid approach).

Bắt chước (imitation)

Thường chúng ta hay có khuynh hướng yêu cầu trẻ lặp lại hay làm theo những gì chúng ta nói/làm trong buổi trị liệu. Với kỹ thuật này, chúng ta sẽ là người lặp lại những gì trẻ nói/làm, với mục đích tạo điều kiện cho trẻ sử dụng ngôn ngữ tức thời một cách tối đa. Trẻ càng nói nhiều thì sẽ càng có cơ hội để trẻ thực hành các kỹ năng ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và chúng ta cũng sẽ có thêm cơ hội đưa ra phản hồi.

Nếu trẻ lặp lại sự bắt chước của ta từ trẻ, chúng ta có thể dựa vào đó mà mở rộng ra với những đáp ứng để gián tiếp thúc đẩy ngôn ngữ cho trẻ. Hoặc chúng ta có thể tiếp tục lặp lại theo trẻ như một cách giúp trẻ phát triển nền tảng cơ bản cho kỹ năng chờ đến lượt qua lại (taking-turns) trong hội thoại.

Mở rộng ngữ pháp (expansions)

Trong kỹ thuật này, trị liệu viên sẽ dựa vào phản hồi của trẻ để mở rộng câu cho trẻ. Vd: nếu trẻ cho búp bê nằm trên giường và nói :”Búp bê ngủ” trị liệu viên sẽ mở rộng thành một câu đầy đủ ngữ pháp từ lời trẻ nói: “À, búp bê đang ngủ.”

Mở rộng ngữ nghĩa/từ vựng (extensions):

Trong kỹ thuật này, trị liệu viên sẽ dựa vào phản hồi của trẻ để mở rộng câu cho trẻ. Vd: nếu trẻ cho búp bê nằm trên giường và nói :”Búp bê ngủ”, trị liệu viên sẽ mở rộng thành một câu có liên đến ngữ cảnh mà trẻ đang chơi: “Búp bê nhắm mắt rồi.” “Búp bê mệt.”

Mở rộng và thu gọn (buildups and breakdowns)

Với kỹ thuật này, trị liệu viên sẽ dựa vào phản hồi của trẻ để mở rộng câu và sau đó thu ngắn lai . Vd: nếu trẻ cho búp bê nằm trên giường và nói :”Búp bê ngủ” trị liệu viên sẽ phản hồi: “Đúng rồi, búp bê đang ngủ. Em búp bê. Em đang ngủ. Đang ngủ. Búp bê đang ngủ. Búp bê.”

Thay đổi mẫu câu (recast sentences)

Trong kỹ thuật này, trị liệu viên sẽ dựa vào phản hồi của trẻ để thay đổi hình thái của câu. Vd: nếu trẻ cho búp bê nằm trên giường và nói :”Búp bê ngủ” trị liệu viên sẽ phản hồi bằng 1 câu hỏi: “Búp bê đang ngủ sao?” hay “Búp bê có ngủ không?” hoặc câu phủ định: “Búp bê không ngủ.”

Dr PSY Việt Nam - Chậm nói & Chậm phát triển
Home
Hotline
Chỉ đường
Liên hệ
Zalo Chat